Thử phân tích vài đoạn cuối trong bài giảng của Thầy "Dân chủ là gì?"
Dân chủ là gì?
Làm việc của mình mà không ảnh hưởng đến người khác thì gọi là dân chủ.
-->> Phải xây dựng NN PQ vì NN PQ đề cao PL, tạo ra mối quan hệ (MQH) đúng đắn, bình đẳng giữa NN và công dân.
Xây dựng NNPQ XHCN VN trong giai đoạn hiện nay, một là, tăng cường sự lãnh đạo của đảng để không bị chệch hướng XHCN, hai là, phải xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, ba là, phải đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ máy NN.
Kính thưa quý
vị:
Trích câu của
Thầy: “Làm
việc của mình mà không ảnh hưởng đến người khác thì gọi là dân chủ” Vậy nếu “người khác”
làm cho quốc gia bị tê liệt, bị rơi vào tay giặc thì sao? Ta vẫn không dám làm
gì để ảnh hưởng đến người đó? Ta chỉ sống cho riêng ta (vô cảm) để cho giặc nó
vào nó ở…. trên đầu ta hả Thầy? Vậy là dân chủ kiểu XHCN đó ư? Thì ra CNXH là
thế giới đại đồng mà (vô quốc gia, vô tổ quốc? Hãy xem 2 câu thơ của Tố Hữu là
đủ: ”Bên nay biên giới là nhà; bên kia
biên giới cũng là quê hương”)
Trích câu của
Thầy: “tăng cường sự
lãnh đạo của đảng…” Lúc nào mà chả tăng cường? Càng tăng thì càng giống
Vinasin, vinaline,…
Quan chức mới Tham nhũng được thưa Thầy.
Trích câu của
Thầy: “…không bị chệt hướng XHCN…”
Hãy xem mấy
ông lãnh đạo cấp cao cho con đi sang các nước TBCN học hỏi làm giàu…trong khi
đó, lại bắt dân mình ở trong nước… để đi lên XHCN và không để bị chệch hướng
XHCN…. Vậy có công bằng, khách quan không Thầy?
Trích: “…phải đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động
của bộ máy NN”
Câu này nghe “sáo
rỗng” quá, nghe quá hóa nhàm, đổi mới…? Hay là bình mới rượu cũ.
Và đây, cái
mà người ta nói trên mạng internet, dân chủ là gì?
Nói một cách tóm tắt, dân chủ phải bao gồm ít nhất một số yếu tố:
Một, nói đến dân chủ, trước hết, là nói đến cơ chế, đến cách thức tổ chức chính quyền. Một chế độ dân chủ phải được dân bầu một cách tự do và bình đẳng. Tính chất tự do và bình đẳng ấy chỉ có thể thực hiện được với một số điều kiện nhất định: thứ nhất, quyền phổ thông đầu phiếu cho mọi người thành niên; thứ hai, mọi người đều có quyền tham gia vào các hoạt động chính trị và xã hội, đặc biệt, được quyền đối lập và phản biện, quyền tuyên truyền và vận động cho lập trường và quan điểm của mình; điều đó có nghĩa là, thứ ba, sinh hoạt chính trị phải dựa trên nền tảng đa nguyên và đa đảng.
Tuy nhiên, bầu cử và đa đảng không bảo đảm được dân chủ nếu chính quyền không tổ chức bầu cử một cách nghiêm minh hoặc sau đó, không tôn trọng kết quả bầu cử (như trường hợp Miến Điện hay Zimbabwe trước đây). Do đó, cần thêm hai điều kiện này nữa: tính chất khả kiểm (accountability) và tinh thần thượng tôn pháp luật. Tính chất khả kiểm lại dựa trên sự minh bạch của chính phủ và quyền tự do thông tin và ngôn luận của mọi người. Trong khi đó tinh thần thượng tôn pháp luật chỉ có ý nghĩa khi tư pháp được độc lập với hành pháp.
Hơn nữa, nói đến cơ chế, không nên chỉ nghĩ đến nhà nước. Trong một xã hội dân chủ, nhà nước chỉ là một bộ phận trong mạng lưới các thiết chế đa dạng và phức tạp, bao gồm các tổ chức chính trị, tôn giáo, nghiệp đoàn, văn hóa, xã hội, thương mại, v.v... Các tổ chức này phải được độc lập với chính quyền và nhằm phát huy một xã hội dân sự lành mạnh để, một mặt, củng cố tình liên đới giữa các cá nhân, mặt khác, bảo vệ quyền lợi của các cá nhân trước khuynh hướng bao trùm và khống chế tất cả của nhà nước.
Hai, tất cả các cơ chế ấy phải được vận hành trên một nguyên tắc: pháp trị. Dân chủ chỉ thực sự là dân chủ khi nó được đặt trên nền tảng pháp luật. Pháp luật ấy, một mặt, gắn liền với những giá trị phổ quát của nhân loại; mặt khác, chi phối mọi thành viên trong xã hội, hoàn toàn không có ngoại lệ, nghĩa là không có ai, tuyệt đối không có ai, dù là vua hay tổng thống hay tổng bí thư đảng, có thể đứng trên pháp luật được.
Hai yếu tố trên rất được nhiều người nhắc đến. Nhưng dân chủ không phải chỉ là cơ chế hay nguyên tắc. Dân chủ còn là một hệ thống niềm tin và giá trị. Bởi vậy đằng sau các cơ chế hay nguyên tắc ấy bao giờ cũng có một thứ văn hóa chính trị đặc biệt được xây dựng trên ba nền tảng chính: Thứ nhất, sự tôn trọng nhân quyền, trong đó có hai quyền cơ bản nhất: tự do và bình đẳng của mọi công dân. Không được quyền nhân danh bất cứ thứ gì, kể cả đa số, để áp chế, tước đoạt quyền lợi hay chà đạp lên nhân phẩm của người khác thuộc phe thiểu số. Một xã hội dân chủ thực sự, một mặt, thực hiện ước muốn của đa số, nhưng mặt khác, phải bảo đảm quyền lợi của thiểu số. Điều quan trọng là việc bảo vệ quyền tự do và bình đẳng của con người phải được thiết chế hóa chứ không phải chỉ dựa vào thiện chí của các nhà lãnh đạo. Thứ hai, một văn hóa dân sự (civic culture) với hai trọng tâm là ý thức trách nhiệm và sự tin cậy đối với cộng đồng và đất nước. Thứ ba, tôn trọng sự đa dạng. Đây là sự khác biệt chính giữa dân chủ cổ điển (ở Hy Lạp) và dân chủ hiện đại: trong khi dân chủ cổ điển dựa trên sự thống nhất và đồng nhất, dân chủ hiện đại dựa chủ yếu trên sự đa dạng và sự khác biệt.
Không phải cái gọi là dân chủ nào cũng hội đủ các đặc điểm nêu trên. Bởi vậy, trên thế giới mới có dân chủ thật và dân chủ giả (pseudodemocracy). Dưới các nền dân chủ giả, dân chúng cũng được phát phiếu đi bầu. Nhưng họ chỉ được bầu những người đã được ai đó lựa chọn sẵn. Và họ hoàn toàn không kiểm soát được hai điều mà, trên nguyên tắc, họ cần và có quyền kiểm soát: thứ nhất, quá trình đếm phiếu (không phải ngẫu nhiên mà ở các nền dân chủ giả, những người thắng cử bao giờ cũng thắng một cách hết sức vẻ vang, toàn 100% hoặc gần gần 100%!), và thứ hai, quá trình hoạt động của các đại biểu sau khi thắng cử.
Bạn thử nghĩ xem nền dân chủ ở Việt Nam hiện nay là thật hay là giả?
Một, nói đến dân chủ, trước hết, là nói đến cơ chế, đến cách thức tổ chức chính quyền. Một chế độ dân chủ phải được dân bầu một cách tự do và bình đẳng. Tính chất tự do và bình đẳng ấy chỉ có thể thực hiện được với một số điều kiện nhất định: thứ nhất, quyền phổ thông đầu phiếu cho mọi người thành niên; thứ hai, mọi người đều có quyền tham gia vào các hoạt động chính trị và xã hội, đặc biệt, được quyền đối lập và phản biện, quyền tuyên truyền và vận động cho lập trường và quan điểm của mình; điều đó có nghĩa là, thứ ba, sinh hoạt chính trị phải dựa trên nền tảng đa nguyên và đa đảng.
Tuy nhiên, bầu cử và đa đảng không bảo đảm được dân chủ nếu chính quyền không tổ chức bầu cử một cách nghiêm minh hoặc sau đó, không tôn trọng kết quả bầu cử (như trường hợp Miến Điện hay Zimbabwe trước đây). Do đó, cần thêm hai điều kiện này nữa: tính chất khả kiểm (accountability) và tinh thần thượng tôn pháp luật. Tính chất khả kiểm lại dựa trên sự minh bạch của chính phủ và quyền tự do thông tin và ngôn luận của mọi người. Trong khi đó tinh thần thượng tôn pháp luật chỉ có ý nghĩa khi tư pháp được độc lập với hành pháp.
Hơn nữa, nói đến cơ chế, không nên chỉ nghĩ đến nhà nước. Trong một xã hội dân chủ, nhà nước chỉ là một bộ phận trong mạng lưới các thiết chế đa dạng và phức tạp, bao gồm các tổ chức chính trị, tôn giáo, nghiệp đoàn, văn hóa, xã hội, thương mại, v.v... Các tổ chức này phải được độc lập với chính quyền và nhằm phát huy một xã hội dân sự lành mạnh để, một mặt, củng cố tình liên đới giữa các cá nhân, mặt khác, bảo vệ quyền lợi của các cá nhân trước khuynh hướng bao trùm và khống chế tất cả của nhà nước.
Hai, tất cả các cơ chế ấy phải được vận hành trên một nguyên tắc: pháp trị. Dân chủ chỉ thực sự là dân chủ khi nó được đặt trên nền tảng pháp luật. Pháp luật ấy, một mặt, gắn liền với những giá trị phổ quát của nhân loại; mặt khác, chi phối mọi thành viên trong xã hội, hoàn toàn không có ngoại lệ, nghĩa là không có ai, tuyệt đối không có ai, dù là vua hay tổng thống hay tổng bí thư đảng, có thể đứng trên pháp luật được.
Hai yếu tố trên rất được nhiều người nhắc đến. Nhưng dân chủ không phải chỉ là cơ chế hay nguyên tắc. Dân chủ còn là một hệ thống niềm tin và giá trị. Bởi vậy đằng sau các cơ chế hay nguyên tắc ấy bao giờ cũng có một thứ văn hóa chính trị đặc biệt được xây dựng trên ba nền tảng chính: Thứ nhất, sự tôn trọng nhân quyền, trong đó có hai quyền cơ bản nhất: tự do và bình đẳng của mọi công dân. Không được quyền nhân danh bất cứ thứ gì, kể cả đa số, để áp chế, tước đoạt quyền lợi hay chà đạp lên nhân phẩm của người khác thuộc phe thiểu số. Một xã hội dân chủ thực sự, một mặt, thực hiện ước muốn của đa số, nhưng mặt khác, phải bảo đảm quyền lợi của thiểu số. Điều quan trọng là việc bảo vệ quyền tự do và bình đẳng của con người phải được thiết chế hóa chứ không phải chỉ dựa vào thiện chí của các nhà lãnh đạo. Thứ hai, một văn hóa dân sự (civic culture) với hai trọng tâm là ý thức trách nhiệm và sự tin cậy đối với cộng đồng và đất nước. Thứ ba, tôn trọng sự đa dạng. Đây là sự khác biệt chính giữa dân chủ cổ điển (ở Hy Lạp) và dân chủ hiện đại: trong khi dân chủ cổ điển dựa trên sự thống nhất và đồng nhất, dân chủ hiện đại dựa chủ yếu trên sự đa dạng và sự khác biệt.
Không phải cái gọi là dân chủ nào cũng hội đủ các đặc điểm nêu trên. Bởi vậy, trên thế giới mới có dân chủ thật và dân chủ giả (pseudodemocracy). Dưới các nền dân chủ giả, dân chúng cũng được phát phiếu đi bầu. Nhưng họ chỉ được bầu những người đã được ai đó lựa chọn sẵn. Và họ hoàn toàn không kiểm soát được hai điều mà, trên nguyên tắc, họ cần và có quyền kiểm soát: thứ nhất, quá trình đếm phiếu (không phải ngẫu nhiên mà ở các nền dân chủ giả, những người thắng cử bao giờ cũng thắng một cách hết sức vẻ vang, toàn 100% hoặc gần gần 100%!), và thứ hai, quá trình hoạt động của các đại biểu sau khi thắng cử.
Bạn thử nghĩ xem nền dân chủ ở Việt Nam hiện nay là thật hay là giả?